Đổi mới giáo dục Âm nhạc ở trường phổ thông Việt Nam sau năm 2015
Lê Anh Tuấn, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
I. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CỦA GIÁO DỤC ÂM NHẠC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA GIÁO DỤC ÂM NHẠC
Trong bối cảnh và điều kiện thực tiễn của nền giáo dục Việt Nam, những thành tựu mà giáo dục Âm nhạc đã đạt được là:
- Thành tựu về hiệu quả giáo dục Âm nhạc: Hiện nay, mỗi năm có hàng triệu học sinh từ lớp 1 đến lớp 9 đang được giáo dục Âm nhạc, đảm bảo những yêu cầu về tính sư phạm và tính khoa học. Giáo dục Âm nhạc thông qua việc dạy học môn Âm nhạc hiện đang hoàn thành tốt sứ mệnh của mình, góp phần giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mĩ, đồng thời phát triển phong trào văn hóa, văn nghệ, tạo bầu không khí vui tươi, sôi nổi trong các nhà trường.
- Thành tựu về Chương trình và sách giáo khoa Âm nhạc: Chương trình giáo dục Âm nhạc đã trình bày được những vấn đề quan trọng nhất, khái quát nhất về việc giáo dục Âm nhạc trong trường phổ thông ở Việt Nam, là tài liệu có tính pháp lí để xác định về vai trò, vị trí của giáo dục Âm nhạc trong nhà trường.
Sách giáo khoa Âm nhạc được biên soạn thống nhất (về mục tiêu, nội dung, cấu trúc...) từ lớp 1 đến lớp 9. Sách giáo khoa Âm nhạc được thiết kế đẹp về hình thức, phong phú về nội dung, đảm bảo các yêu cầu về tính khoa học và tính giáo dục, thuận lợi cho việc tổ chức dạy học.
Môn Âm nhạc đã lựa chọn được những nội dung phù hợp (học hát, nhạc lí, tập đọc nhạc, âm nhạc thường thức), vừa đáp ứng được đặc trưng của nghệ thuật Âm nhạc, vừa đáp ứng được điều kiện thực tiễn ở Việt Nam.
- Thành tựu về phát triển đội ngũ giáo viên Âm nhạc: Năm 2002, khi bắt đầu triển khai thay sách giáo khoa Âm nhạc đại trà, chỉ có khoảng 35% số trường tiểu học (TH) và trung học cơ sở (THCS) có giáo viên chuyên trách dạy Âm nhạc. 10 năm sau, số lượng giáo viên Âm nhạc đã tăng đáng kể, đáp ứng khoảng 90% nhu cầu của các trường.
Thông tin về số lượng giáo viên (biên chế và hợp đồng) dạy Âm nhạc ở TH và THCS trong phạm vi toàn quốc:
Năm |
Tiểu học |
THCS |
Tỉ lệ (số GV / số trường) |
||
Số GV |
Số trường |
Số GV |
Số trường |
||
2002 |
(4.500) |
(12.000) |
(3.500) |
(9.500) |
(35 %) |
2010 |
9.874 |
15.157 |
9.932 |
10.769 |
80 % |
2012 |
14.918 |
15.781 |
(10.500) |
(11.000) |
(90 %) |
(trong ngoặc đơn là số liệu gần đúng)
- Thành tựu về phương tiện dạy học Âm nhạc: phương tiện dạy học Âm nhạc ngày càng phong phú, được nâng cao cả về số lượng và chất lượng, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục Âm nhạc. Năm 2002, việc sử dụng giáo án điện tử còn rất xa lạ thì giờ đây, có khoảng 85% GV Âm nhạc đã biết thiết kế giáo án điện tử hoặc biết khai thác thông tin trên mạng Internet để nâng cao chất lượng dạy học Âm nhạc.
Năm 2009, công ty nhạc cụ Booyoung của Hàn Quốc đã tặng các trường Tiểu học ở Việt Nam 10.000 cây đàn piano điện tử, số nhạc cụ này cũng góp phần đem đến những sự thay đổi tích cực cả về hình thức và chất lượng dạy học Âm nhạc.
- Thành tựu về phương pháp dạy học Âm nhạc: phương pháp dạy học Âm nhạc có rất nhiều chuyển biến tích cực so với thời gian trước. Việc giáo viên truyền tải kiến thức và kĩ năng âm nhạc cho học sinh trở nên dễ dàng và hiệu quả, không khí giờ học Âm nhạc thường rất vui tươi và sinh động. Học sinh được học Âm nhạc bằng đa giác quan, bằng nhiều hình thức, đã phát huy được tính tích cực và sự sáng tạo của các em, nhiều giáo viên đã vận dụng những phương pháp mới như học theo góc, học theo dự án, học theo hợp đồng trong dạy học Âm nhạc.
1.2. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA GIÁO DỤC ÂM NHẠC
Âm nhạc là môn học có tuổi đời non trẻ, từ 2002 mới triển khai đại trà trên phạm vi toàn quốc, thời gian học mỗi tuần 1 tiết, trong khi số lượng học sinh rất đông, nên vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:
- Hạn chế về chất lượng giáo viên: chất lượng giáo viên Âm nhạc không đồng đều đang là hạn chế lớn nhất, bởi có quá nhiều trường đại học, cao đẳng đào tạo giáo viên Âm nhạc, trong khi chất lượng đầu vào thấp. Không ít giáo viên Âm nhạc hiện nay chưa đáp ứng được những yêu cầu về phẩm chất và năng lực sư phạm, năng lực âm nhạc.
- Hạn chế về nội dung giáo dục Âm nhạc mang bản sắc văn hóa địa phương: nội dung và số tiết dành cho địa phương tự chọn quá ít, sắp xếp và thời điểm chưa hợp lí nên các tiết học dành cho phần địa phương kém hiệu quả.
- Hạn chế về đánh giá kết quả học tập Âm nhạc: hiệu quả đánh giá chưa cao, bởi theo xếp loại cuối cùng thì gần như tất cả học sinh đều có kết quả tương tự nhau, ở TH hầu như mọi học sinh đều ở mức hoàn thành, ở THCS hầu như mọi học sinh đều ở mức đạt. Hiếm gặp trường hợp học sinh chưa hoàn thành ở TH, hoặc chưa đạt ở THCS.
Đánh giá như vậy thì không phân loại được học sinh, không tạo được động lực để các em tích cực, cố gắng vươn lên trong học tập, thậm chí có học sinh ở THCS còn không có sách giáo khoa Âm nhạc.
II. GIÁO DỤC ÂM NHẠC Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Giáo dục nghệ thuật nói chung và giáo dục Âm nhạc nói riêng là một thành phần không thể thiếu trong giáo dục bắt buộc ở hầu hết các nước trên thế giới, cho dù ở những nước đó có sự khác biệt về địa lí, chính trị, kinh tế, tôn giáo, văn hóa, xã hội… Những nước càng phát triển thì người ta lại càng chú trọng tới việc giáo dục Âm nhạc và nghệ thuật cho học sinh, và ngược lại, chỉ những nước giàu mạnh mới đủ điều kiện để làm tốt công việc giáo dục nghệ thuật.
Hai nhà tư tưởng lớn của châu Á và châu Âu, đã đánh giá rất cao vai trò của giáo dục Âm nhạc và nghệ thuật. Từ xưa, Khổng Tử đã nói: "Đi qua nhà nào nghe thấy tiếng nhạc, biết được nhà đó có hiền đức”, còn Víc-to Huy-gô thì đánh giá: “Nghệ thuật làm cho một dân tộc nô lệ trở thành tự do, làm cho một dân tộc tự do trở thành vĩ đại”.
Những nghiên cứu ở Nhật Bản gần đây cho thấy giáo dục Âm nhạc không chỉ đem lại sự phát triển nhân cách và những kĩ năng xã hội. Người ta thấy rằng giáo dục Âm nhạc còn làm phát triển các năng lực của học sinh trong nhiều lĩnh vực khác nhau như Toán, Khoa học, khả năng đọc và ngôn ngữ... Thực tế Âm nhạc gắn liền với sự phát triển trí thông minh nói chung. Các nghiên cứu cũng mang lại những bằng chứng cho thấy rằng, đơn thuần chỉ nghe nhạc từ lứa tuổi nhỏ có thể giúp cho trí não phát triển, vì thế một chương trình giáo dục Âm nhạc được soạn thảo dài hạn sẽ đem lại nhiều lợi ích hơn. Có thể nói, giáo dục Âm nhạc khiến trẻ em trở nên thông minh hơn và trở thành những nhân cách tốt hơn.
So sánh về những môn học cốt lõi trong giai đoạn giáo dục bắt buộc ở các nước, theo thống kê của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD (41 quốc gia, 33 nước thành viên và 8 nước đối tác) và theo tổng kết của INCA (Đánh giá quốc tế về Chương trình):
Những môn học cốt lõi (thống kê của OECD) |
Những môn học cốt lõi (tổng kết của INCA) |
1. Đọc, viết và văn học 2. Toán 3. Khoa học 4. Tìm hiểu xã hội 5. Ngoại ngữ 6. Tiếng Hy lạp và La tinh cổ 7. Công nghệ 8. Nghệ thuật 9. Giáo dục thể chất 10. Tôn giáo 11. Thực hành và kĩ năng nghề Các môn học khác... |
1. Tiếng mẹ đẻ 2. Toán 3. Khoa học 4. Địa lí 5. Lịch sử 6. Ngoại ngữ 7. Thiết kế công nghệ 8. Giáo dục thể chất 9. Nghệ thuật 10. Âm nhạc 11. ICT 12. Giáo dục công dân Các môn học khác... |
Cũng theo INCA, những môn học bắt buộc ở Tiểu học, Trung học cơ sở và THPT của tất cả các nước là:
Tiểu học (7 môn) |
THCS (8 môn) |
THPT (8 môn) |
1. Toán 2. Khoa học tự nhiên 3. Ngôn ngữ và văn học 4. Khoa học xã hội 5. Nghệ thuật 6. Giáo dục thể chất 7. Kĩ năng sống Và các môn học tự chọn... |
1. Toán 2. Khoa học tự nhiên 3. Ngôn ngữ và văn học 4. Khoa học xã hội 5. Nghệ thuật 6. Ngoại ngữ 7. Giáo dục thể chất 8. Kĩ năng sống Và các môn học tự chọn... |
1. Toán 2. Khoa học tự nhiên 3. Ngôn ngữ và văn học 4. Khoa học xã hội 5. Nghệ thuật 6. Ngoại ngữ 7. Giáo dục thể chất 8. Giáo dục công dân Và các môn học tự chọn... |
Có thể thấy rằng, giáo dục nghệ thuật là một lĩnh vực giáo dục cốt lõi ở hầu hết các nước. Có nước xác định giáo dục nghệ thuật gồm 2 môn là Âm nhạc và Mĩ thuật, có nước lại lựa chọn 4 môn là Âm nhạc, Mĩ thuật, Khiêu vũ, Sân khấu, ...
Những vấn đề trọng tâm và then chốt về giáo dục Âm nhạc của một số nước, được thể hiện trong chương trình giáo dục:
Chương trình GD Âm nhạc |
Trọng tâm về giáo dục Âm nhạc |
CT GD Âm nhạc Anh 1999 |
Kiến thức, kĩ năng và hiểu biết (Knowledge, skills and understanding): -Kiểm soát âm thanh thông qua ca hát và chơi nhạc cụ- kĩ năng thực hành -Sáng tạo và phát triển ý tưởng âm nhạc- kĩ năng sáng tạo -Đáp ứng và xem xét- kĩ năng đánh giá -Lắng nghe, áp dụng kiến thức và hiểu biết |
CT GD Âm nhạc Mỹ (Massachusetts) 1999 |
Các tiêu chuẩn (Standards) -Ca hát -Đọc nhạc -Chơi nhạc cụ -Ngẫu hứng và sáng tạo -Phân tích -Mục đích và ý nghĩa trong nghệ thuật -Vai trò của các nghệ sĩ trong cộng đồng -Khái niệm về phong cách, ảnh hưởng và thay đổi phong cách -Sáng chế, công nghệ và nghệ thuật -Kết nối các liên ngành |
CT GD Âm nhạc Canada (Quebec) 2004 |
Các năng lực (Competencies) -Năng lực 1: Tạo ra tác phẩm âm nhạc -Năng lực 2: Thực hiện tác phẩm âm nhạc -Năng lực 3: Biết thưởng thức tác phẩm âm nhạc |
CT GD Âm nhạc Phần Lan 2004 |
Các mục tiêu (Objectives) -Hát, chơi nhạc cụ theo nhóm và cá nhân. -Nghe âm nhạc một cách tích cực và chăm chú. -Hiểu sự đa dạng của thế giới âm nhạc. -Trình diễn âm nhạc, với vai trò hành viên của 1 nhóm nhạc. -Đánh giá, phê bình về các thể loại và phong cách âm nhạc. -Hiểu ý nghĩa các yếu tố trong âm nhạc. -Sáng tạo và biểu diễn âm nhạc. |
CT GD Âm nhạc Việt Nam 2006 |
Các nội dung -Học hát -Âm nhạc thường thức -Nhạc lí -Tập đọc nhạc |
CT GD Âm nhạc Hàn Quốc 2007 |
Các nội dung (Contents) -Hoạt động âm nhạc (ca hát, chơi nhạc cụ, đọc nhạc, sáng tạo…) -Hiểu biết về âm nhạc (kiến thức nhạc lí và đời sống âm nhạc…) -Ứng dụng âm nhạc (trong và ngoài nhà trường…) |
CT GD Âm nhạc Pháp 2008 |
Kiến thức, kĩ năng và thái độ 1. Cảm nhận âm nhạc, xây dựng văn hóa 1.1. Lắng nghe, khám phá và xác định đặc tính của âm thanh và âm nhạc 1.2. Lắng nghe và nghiên cứu các tác phẩm để hình thành nền văn hóa âm nhạc và nghệ thuật cho bản thân 2. Thực hành âm nhạc 2.1. Trình diễn và sáng tạo âm nhạc 2.2. Các dự án phát triển năng lực âm nhạc và nền văn hóa nghệ thuật của học sinh |
CT GD Âm nhạc Singapore 2008 |
Các mục tiêu (Objectives) O1: Hát và chơi nhạc cụ theo giai điệu, bằng hình thức cá nhân hoặc nhóm O2: Sáng tác và ứng tác âm nhạc O3: Lắng nghe để mô tả và đánh giá âm nhạc O4: Phát triển sự hiểu biết về các yếu tố, khái niệm âm nhạc O5: Phân biệt, tiếp nhận âm nhạc từ nhiều nền văn hóa, nhiều thể loại O6: Hiểu được vai trò của âm nhạc trong cuộc sống hàng ngày |
CT GD Âm nhạc Canada (Ontario) 2009 |
Các mạch (Strands) -Sáng tạo và biểu diễn -Phản ánh, ứng phó và phân tích -Hình thức và bối cảnh văn hóa |
Tại Hàn Quốc, giáo dục Âm nhạc được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12, trong đó thực hiện bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 10, tự chọn ở lớp 11, 12. Ở lớp 1 và lớp 2, có 4 môn được tích hợp thành môn Cuộc sống thú vị, đó là Nghệ thuật thực hành, Giáo dục thể chất, Âm nhạc và Mĩ thuật. Từ lớp 3, chúng được tách thành những môn học riêng, trong đó từ lớp 3 đến lớp 7 học 2 tiết Âm nhạc một tuần, từ lớp 8 đến lớp 10 học 1 tiết một tuần. Chương trình được xây dựng dựa theo các loại năng lực của học sinh như: hoạt động âm nhạc (ca hát, chơi nhạc cụ, đọc nhạc, sáng tạo…), hiểu biết về âm nhạc (kiến thức nhạc lí và đời sống âm nhạc…), ứng dụng âm nhạc (trong và ngoài nhà trường…).
Trường |
Tiểu học |
THCS |
THPT |
|||||||||
Lớp |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
Nghệ thuật thực hành |
Cuộc sống thú vị 180 204 |
- |
- |
68 |
68 |
Kĩ thuật công nghệ Kinh tế gia đình 68 102 102 102 |
Các học trình tự chọn |
|||||
Giáo dục thể chất |
102 |
102 |
102 |
102 |
102 |
102 |
68 |
68 |
||||
Âm nhạc |
68 |
68 |
68 |
68 |
68 |
34 |
34 |
34 |
||||
Mĩ thuật |
68 |
68 |
68 |
68 |
34 |
34 |
68 |
34 |
Phân bổ thời lượng dành cho môn Âm nhạc ở Hàn Quốc:
Lớp |
Phân bổ thời gian mỗi tuần Lớp/ tuần (phút) |
Tên môn |
Trường |
1-2 |
3 (40) |
Cuộc sống thú vị |
Tiểu học |
3-6 |
2 (40) |
Âm nhạc |
|
7 |
2 (45) |
Âm nhạc |
Trung học cơ sở |
8-9 |
1 (45) |
Âm nhạc |
|
10 |
1 (45) |
Âm nhạc |
Trung học phổ thông |
- Chương trình tự chọn môn Âm nhạc cho lớp 11 và lớp 12 (trích bảng 2, The School Curriculum of the Republic of Korea).
Môn học |
Chương trình cơ bản quốc gia |
Chương trình tự chọn trung tâm |
|
Các học trình tự chọn cơ bản |
Các học trình tự chọn chuyên sâu |
||
Âm nhạc |
Âm nhạc (2) |
Âm nhạc và cuộc sống (4) |
Lí thuyết âm nhạc (4) Thực hành âm nhạc (trên 4) |
Trong những cuộc thi âm nhạc trên thế giới, Hàn Quốc cũng thường đạt thành tích cao. Chỉ có 2 nước châu Á khiến các nước phương Tây phải nể phục trong các cuộc thi âm nhạc thế giới, đó là Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tại Nhật Bản, âm nhạc là một phần không thể tách rời của bất cứ chương trình giáo dục nào. Mục tiêu là để nuôi dưỡng và củng cố niềm ham thích và sự tham gia của học sinh vào những hoạt động âm nhạc. Việc này giúp cho các em đạt được kết quả học tập tốt hơn và có những lối cư xử, thái độ và phẩm chất tốt hơn trong cuộc sống.
Tương tự như ở Hàn Quốc, số tiết học Âm nhạc ở Nhật Bản có xu hướng giảm dần từ lớp 1 đến lớp 9. Cụ thể là.
|
Lớp |
Số tiết học Âm nhạc/ năm |
Ghi chú |
Tiểu học |
1 |
68 |
1 tiết = 45 phút |
2 |
70 |
||
3 |
60 |
||
4 |
60 |
||
5 |
50 |
||
6 |
50 |
||
Trung học cơ sở |
7 |
45 |
1 tiết = 50 phút |
8 |
35 |
||
9 |
35 |
Lớp 1 và lớp 2 luyện tập tiết tấu cho lứa tuổi từ 7-8: Giai đoạn đầu của giáo dục âm nhạc tại các trường tiểu học ở Nhật Bản bắt đầu từ lứa tuổi 7 hoặc 8, cơ bản là luyện tập về tiết tấu. Tại giai đoạn này trọng tâm chủ yếu là gieo niềm ham thích âm nhạc cho trẻ nhỏ, tạo điều kiện cơ bản cho những bước phát triển về âm nhạc sau này. Theo đúng tiến trình thì trẻ em sẽ được lôi cuốn vào âm nhạc một cách nhiệt tình, khám phá ra sự tuyệt vời của âm nhạc.
Lớp 3 và lớp 4 luyện đọc nhạc cho trẻ em ở lứa tuổi 9-10: Sau giai đoạn luyện tập ban đầu về tiết tấu, tới khoảng 9 hay 10 tuổi học sinh được tiếp xúc với các phương tiện âm nhạc. Các em tiếp tục học để phát triển hơn nữa những kỹ năng về tiết tấu đã thu nhận được bằng cách dùng những cung bậc cao thấp và giai điệu khác nhau để biểu đạt một cách tốt hơn. Ngoài việc chơi những giai điệu soạn sẵn các em còn được khuyến khích tự sáng tác và biểu đạt tình cảm của mình một cách tự nhiên bằng âm nhạc. Cũng giống như giai đoạn học tiết tấu ban đầu, quá trình khám phá niềm vui trong giai điệu là chìa khoá cho sự phát triển của trẻ.
Lớp 5 và 6 luyện tập về hoà tấu cho lứa tuổi từ 11-12: Với khoảng 11-12 tuổi, con đường tiếp cận với giáo dục âm nhạc trở nên tổng quát hơn. Trọng tâm được chuyển từ những nhịp điệu và giai điệu đơn giản sang những bài nhạc với nhiều nốt, thanh âm khác nhau, học sinh bắt đầu phát triển khả năng thẩm nhạc tự nhiên hiểu được những hoà tấu và những tiết tấu âm thanh đồng thời cũng tiếp thu được kiến thức ngày càng vững vàng hơn về âm nhạc. Hình thức sáng tác và hình thức biểu diễn nhạc được khuyến khích và tăng cường qua nhiều loại hoạt động âm nhạc khác nhau.
Trong các giờ học Âm nhạc ở Nhật Bản, học sinh ở những lớp nhỏ thường sử dụng kèn melodion hoặc sáo recorder để tập trình bày những bản nhạc ngắn gọn, học sinh ở lớp lớn hơn có thể tập hòa tấu những bản nhạc với phần đệm piano của giáo viên. Ở Thái Lan, hàng năm người ta thường tổ chức ngày hội âm nhạc với sự tham gia của tất cả các trường trong khu vực. Mỗi trường có hàng trăm học sinh tham gia, các em vừa diễu hành vừa thổi kèn, đánh trống rất rộn ràng, sôi động. Loại kèn được sử dụng phổ biến trong ngày hội âm nhạc thường là kèn melodion, đôi khi có cả trumpet… Nhiều nước khác, nhà trường sử dụng đàn piano, đàn phím điện tử và nhiều loại nhạc cụ khác để hướng dẫn học sinh luyện tập âm nhạc. Qua việc giáo dục âm nhạc trong trường ở các nước, có thể nhận thấy, hầu hết học sinh đều rất thích được tiếp cận và sử dụng một loại nhạc cụ nào đó.
Ở Mỹ, mỗi bang có chương trình giáo dục Âm nhạc riêng, tuy nhiên, theo Chuẩn quốc gia về giáo dục âm nhạc của Mỹ, khi học Âm nhạc, học sinh cần đạt được 9 yêu cầu sau:
Hát, một mình và hát cùng người khác.
Trình diễn nhạc cụ, một mình và cùng người khác.
Soạn giai điệu ngẫu hứng, biến tấu và hòa âm.
Sáng tác và soạn bản nhạc theo một số gợi ý.
Đọc nhạc.
Nghe, phân tích và miêu tả âm nhạc.
Đánh giá về tác phẩm và trình diễn âm nhạc.
Hiểu mối quan hệ giữa âm nhạc với các loại nghệ thuật khác.
Hiểu về âm nhạc trong mối quan hệ với lịch sử và văn hóa.
Ở Canada, giáo dục Tiểu học gồm các môn tiếng Anh, tiếng Pháp, Toán, Khoa học, Công nghệ, Nghệ thuật, Xã hội học, Giáo dục thể chất... Sau giờ học, gia đình nào có điều kiện thì cho con em tham gia các chương trình ngoài giờ, tùy theo độ tuổi, có các môn học như: Nữ công gia chánh (đan lát, thêu thùa, nấu nướng, bảo mẫu...), Thể dục thể thao (yoga, thể dục nhịp điệu, thể dục máy, golf, tennis, điền kinh, bóng đá, bóng chày, bóng chuyền, bóng rổ, khúc côn cầu, đấm bốc, luyện thể hình, cầu lông, võ thuật, trượt băng, khiêu vũ thể thao, múa bụng, múa Trung Hoa, múa hiện đại, múa ba lê, bơi lội, chèo thuyền, cứu hộ...), Mĩ thuật, Nhiếp ảnh, Âm nhạc (piano, guitar, keyboard, violon, thổi sáo, chơi trống, luyện thanh, ca hát...), Kịch (diễn xuất trước ống kính, đọc thơ, kịch câm...), Thủ công (xếp hộp, làm thiệp, xếp hình, nặn đất sét nghệ thuật...), Viết văn, làm thơ... Tất cả những môn học ngoài giờ kể trên, cha mẹ đều phải đóng tiền để tham gia học, tuy nhiên học sinh cũng được hỗ trợ một tài khoản riêng, chuyên dùng thanh toán cho các hoạt động này.
Ở Anh, chương trình Âm nhạc quốc gia được chia theo 4 giai đoạn: học sinh từ 5 đến 7 tuổi (chủ yếu phát triển kĩ năng nghe nhạc); từ 7 đến 11 tuổi (kĩ năng hát và chơi nhạc cụ); từ 11 đến 14 tuổi (nhạc lí và đọc nhạc); từ 14 đến 16 tuổi (trình diễn và sáng tạo). Mỗi giai đoạn có mục tiêu riêng, kèm theo đó là nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp.
Ở Phần Lan, giáo dục Âm nhạc ở Tiểu học được chia thành các loại trình độ khác nhau, ví dụ trình độ từ 1 đến 4 có các mục tiêu: học sinh sử dụng giọng hát tự nhiên và năng lực của mình để ca hát, chơi nhạc cụ và vận động theo nhạc trong nhóm hoặc một mình; nghe để nhận xét về âm nhạc; sáng tạo âm nhạc dựa trên những gợi ý; hiểu biết về sự đa dạng của thế giới âm nhạc… Trình độ từ 5 đến 9 có các mục tiêu: duy trì và cải tiến các năng lực âm nhạc cá nhân; hiểu biết về các thể loại và phong cách âm nhạc; hiểu biết về các yếu tố của âm nhạc như giai điệu, tiết tấu, hòa âm, cường độ, giọng và cấu trúc tác phẩm; sáng tạo âm nhạc. Giáo dục Âm nhạc ở THCS có 2 lĩnh vực: lĩnh vực thứ nhất là giáo dục bắt buộc, gồm 2 chủ đề là Âm nhạc và tôi, Phức điệu của Phần Lan; lĩnh vực thứ hai là giáo dục đặc biệt, gồm 3 chủ đề là Mở rộng với Âm nhạc, Thông điệp và tác dụng của Âm nhạc, Dự án Âm nhạc...
Về nội dung giáo dục Âm nhạc, các nước đều coi trọng giáo dục thực hành cho học sinh phổ thông, với các nội dung chủ yếu là học hát, đọc nhạc, nhạc cụ, trình diễn âm nhạc, sáng tạo âm nhạc… Trong quá trình giáo dục Âm nhạc, các nước đều dạy học sinh biết sử dụng một loại nhạc cụ nào đấy. Bởi vì nhạc cụ là hiện thân của âm nhạc, là công cụ tuyệt vời nhất để tạo ra âm thanh. Tiếp xúc với nhạc cụ làm học sinh có thêm niềm vui, là bước khởi nguồn cho những sáng tạo nghệ thuật của các em.
Về phương pháp giáo dục Âm nhạc, các nước đều vận dụng một số phương pháp giáo dục Âm nhạc phổ biến cho HS phổ thông, như phương pháp Kodaly (do nhạc sĩ Zoltan Kodaly, nhà giáo dục âm nhạc người Hunggari đề xướng); phương pháp Orff Schulwerk (nhạc sĩ người Đức là Carl Orff); Suzuki (nhà giáo dục người Nhật Bản); Dalcroze (Emile Jaques- Dalcroze, nhà giáo dục âm nhạc người Thụy Sĩ)... Một số nét đặc trưng trong phương pháp của Kodaly là: quy ước đọc tên nốt nhạc bằng các thế tay; sử dụng ca hát như là nền tảng của luyện tập âm nhạc; sử dụng âm nhạc dân gian là tài liệu học tập. Nét đặc trưng của phương pháp Orff Schulwerk là: vận động nhẹ nhàng khi nghe nhạc cổ điển; chơi các trò chơi theo nhịp điệu; vận động theo nhạc; đọc thơ theo tiết tấu… Những phương pháp giáo dục trên đã ít nhiều tác động đến việc dạy học Âm nhạc ở Việt Nam. Nhiều yếu tố được vận dụng phù hợp với điều kiện dạy Âm nhạc ở nước ta như: coi trọng luyện tập ca hát, tập hát dân ca, vận động theo nhạc, trò chơi âm nhạc, đọc thơ hoặc lời hát theo tiết tấu, các bài tập sáng tạo âm nhạc…
Về đào tạo, giáo viên Âm nhạc ở các nước được đào tạo có chuyên môn sâu về âm nhạc như tốt nghiệp các chuyên ngành biểu diễn âm nhạc, lí luận âm nhạc hoặc sáng tác âm nhạc… sau đó, họ phải theo một khóa học về sư phạm và trải qua quá trình thực tập để có đủ điều kiện giảng dạy Âm nhạc cho học sinh phổ thông.
Về sách giáo khoa Âm nhạc, hầu hết các nước đều công bố, giới thiệu nhiều bộ sách giáo khoa, để nhà trường được lựa chọn cuốn sách thích hợp. Một số nước, bộ Giáo dục không biên soạn sách giáo khoa, mà giáo viên phải tự biên soạn tài liệu học tập cho sách giáo khoa.
Sách giáo khoa Âm nhạc Tiểu học (từ lớp 1 đến lớp 6) của Malaysia (tác giả: C. H. Lee) được biên soạn tương tự như ở Việt Nam, đó là biên soạn theo số tiết trong một năm học. Mỗi lớp gồm 37 tiết, nội dung bao gồm học hát, đọc nhạc, luyện tập tiết tấu, làm quen với nốt nhạc, tìm hiểu về nhạc cụ, …
Sách giáo khoa Âm nhạc của Trung Quốc cũng biên soạn tương tự như ở Việt Nam, nhưng có một khác biệt lớn là sách thường dùng các chữ số (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7) để đọc thay tên các nốt nhạc. Số 1 là âm chủ của một giọng (ví dụ ở giọng Pha trưởng thì 1 là âm Pha, 2 là âm Son…), còn các chữ số khác là các bậc tương ứng trong giọng đó.
Sách giáo khoa Âm nhạc Tiểu học của Singapore (tác giả: Peter Stead; Dr Eugene Dairianathan) lại qui định về thời hạn sử dụng sách chỉ trong 5 năm: sách lớp 1, 2, 3 được dùng từ 2008 đến 2012; sách lớp 4, 5 được dùng từ 2009 đến 2013. Sách không thiết kế theo từng tiết dạy mà theo các chủ đề, ví dụ như: Âm nhạc xung quanh chúng ta; Chuyển động theo nhịp; Âm thanh to và nhỏ; Âm thanh cao và thấp; Âm thanh dài và ngắn…, mỗi lớp có khoảng 10 chủ đề. Mỗi chủ đề lại bao gồm một vài hoạt động trong số các hoạt động như: ca hát, nghe nhạc, hoạt động, suy nghĩ, sáng tạo, làm việc theo nhóm, nhớ lại, xây dựng tạp chí âm nhạc, xem video… Bài học đầu tiên về Âm nhạc của học sinh lớp 1 là nghe và tìm hiểu về Quốc ca Singapore, Quốc kì, loài hoa và biểu tượng của đất nước Singapore.
Một vài ví dụ về cách biên soạn sách giáo khoa Âm nhạc ở Singapore. Ví dụ thứ nhất, biên soạn về nội dung và hoạt động của chủ đề Âm nhạc xung quanh chúng ta (lớp 1):
Chủ đề |
Nội dung và hoạt động |
Âm nhạc xung quanh chúng ta |
HS tìm hiểu về âm thanh xung quanh các em |
HS làm việc cùng nhau để trả lời câu hỏi: “Trong bức tranh này, mọi người có thể nghe thấy những loại âm thanh nào?” |
|
HS nghe nhạc về các dàn nhạc của Malay, Trung Quốc, Ấn Độ, dàn nhạc giao hưởng phương Tây |
|
HS học hát bài Những chiếc bánh xe buýt |
|
HS tạo ra âm thanh như gõ nhịp, vỗ tay, dậm chân, huýt sáo… |
|
Hoạt động sáng tạo, HS tạo ra các âm thanh khác từ các bộ phận của cơ thể |
|
HS điền thêm các loại cường độ âm thanh vào bảng |
|
HS xây dựng tạp chí âm nhạc, điền trắc nghiệm đúng, sai cho các câu hỏi về âm thanh và âm nhạc |
Ví dụ thứ hai, biên soạn về nội dung và hoạt động của chủ đề Âm nhạc và những sự thay đổi (lớp 5), mục tiêu là thông qua 7 hoạt động, HS sẽ hiểu được những sự thay đổi trong âm nhạc và thực hành được những kĩ năng âm nhạc cần thiết:
Chủ đề |
Nội dung và hoạt động |
Âm nhạc và những sự thay đổi |
HS phân biệt về cao độ, tốc độ, cường độ, tiết tấu trong âm nhạc |
HS nghe bài hát Suzana (của M. Osman) và trả lời một số câu hỏi |
|
HS học hát bài Mẹ muốn nghe |
|
HS nhớ lại về tác dụng của khóa Son |
|
Hoạt động sáng tạo, HS xây dựng hình tiết tấu có 4 nhịp 2/4 và dùng nhạc cụ thể hiện tiết tấu đó |
|
Hoạt động nâng cao, HS tìm ví dụ, nghe và trả lời câu hỏi |
|
HS xây dựng tạp chí âm nhạc, trả lời các câu hỏi thông qua việc nghe 2 biến tấu của bài Mẹ muốn nghe, biến tấu 1 viết ở giọng Rê trưởng, thể hiện với cường độ nhẹ, biến tấu 2 viết ở giọng Son trưởng, thể hiện với cường độ mạnh |
III. ĐỊNH HƯỚNG VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ÂM NHẠC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG VIỆT NAM SAU 2015
Trên cơ sở đánh giá về những thành tựu và hạn chế của giáo dục Âm nhạc, qua tìm hiểu giáo dục Âm nhạc ở một số nước và qua điều kiện thực tiễn ở Việt Nam, chúng tôi xin đưa ra một số định hướng về đổi mới giáo dục Âm nhạc sau đây.
3.1. GIÁO DỤC ÂM NHẠC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Dạy học Âm nhạc cho học sinh trường THPT (lớp 10, 11, 12) là hình thức mở rộng về phạm vi giáo dục Âm nhạc. Học sinh ở tuổi này đang phát triển hoàn thiện về thể chất và tư duy, rất cần được tiếp tục học tập về Âm nhạc, Mĩ thuật để hình thành định hướng thẩm mĩ và nghệ thuật. Hiện nay, giáo dục phổ thông đang bỏ lỡ những cơ hội giáo dục thẩm mĩ và nghệ thuật cho học sinh, trong khi nhiều em yêu thích nghệ thuật, có năng khiếu về lĩnh vực này nhưng chưa có môi trường để phát triển. Điều này có thể làm một số học sinh nhận thức sai lệch về thị hiếu thẩm mĩ, về giao tiếp, về kĩ năng sống… Một giải pháp khả thi là đưa giáo dục nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật, Múa, Kịch, Sân khấu….) trở thành một trong những môn học (hoặc chủ đề) tự chọn ở trường Trung học phổ thông.
Đề xuất về kế hoạch giáo dục Âm nhạc trong trường phổ thông sau năm 2015.
|
Lớp |
Số tiết học Âm nhạc/ năm |
Ghi chú |
Tiểu học |
1 |
35 tiết |
1 tiết = 35 phút |
2 |
35 tiết |
||
3 |
35 tiết |
||
4 |
35 tiết |
||
5 |
35 tiết |
||
Trung học cơ sở |
6 |
35 tiết |
1 tiết = 45 phút |
7 |
35 tiết |
||
8 |
35 tiết |
||
9 |
18 tiết |
||
Trung học phổ thông |
10 |
Các chủ đề Âm nhạc tự chọn |
1 tiết = 45 phút |
11 |
|||
12 |
Ở Trung học phổ thông, mỗi chủ đề Âm nhạc tự chọn được thực hiện khoảng 5-7 tiết, ví dụ như: học hát, nhạc cụ, tập đọc nhạc, nhạc lí, âm nhạc và múa, lịch sử âm nhạc, trình diễn âm nhạc… Trước mắt, tùy thuộc vào sự đăng kí của học sinh, nhà trường sẽ mời giáo viên thỉnh giảng hoặc tổ chức dạy học cho phù hợp với điều kiện thực tế.
3.2. DẠY NHẠC CỤ TRONG MÔN ÂM NHẠC
Đây là một thay đổi rất cần thiết, vì học nhạc cụ sẽ làm môi trường học tập Âm nhạc trở nên đa dạng, phong phú hơn. Có hai phương tiện để biểu hiện âm nhạc là giọng hát và nhạc cụ, thì chúng ta mới chỉ sử dụng giọng hát của học sinh mà hoàn toàn chưa khai thác được vai trò của nhạc cụ trong giáo dục âm nhạc. Ngoài ra, có những học sinh không có khả năng ca hát, nhưng lại có thể chơi nhạc cụ khá tốt, vì vậy hoạt động này sẽ làm các em không thấy chán hoặc sợ học âm nhạc.
Để nâng cao hiệu quả giáo dục Âm nhạc, chúng ta cần học tập, nghiên cứu về giáo dục âm nhạc ở các nước. Trong đó xác định việc dạy nhạc cụ cho học sinh trong nhà trường phổ thông là điểm nhấn quan trọng, là thay đổi lớn so với chương trình giáo dục Âm nhạc hiện hành.
Về dạy nhạc cụ, có thể chia thành 2 giai đoạn, học sinh lớp 1, 2, 3 cần thực hành các nhạc cụ gõ (thanh phách, song loan, mõ, trống, sênh) để rèn luyện về nhịp điệu và tiết tấu. Từ lớp 4 đến lớp 9, các em sẽ học thêm một nhạc cụ khác (loại đơn giản và phổ biến như sáo recorder, kèn melodion...) để hỗ trợ phát triển năng lực âm nhạc, như: ca hát, đọc nhạc, vận động, biểu diễn, sáng tạo ...
3.3. XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH MÔN ÂM NHẠC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH
Để giáo dục học sinh trở thành những người phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ, đồng thời đạt được 4 trụ cột về giáo dục (học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung sống- UNESCO), chương trình Âm nhạc sau 2015 cần góp phần giúp HS hình thành và phát triển các phẩm chất, năng lực chung và các năng lực chuyên biệt sau:
Phẩm chất |
Năng lực chung cốt lõi |
Năng lực chuyên biệt |
-Tình yêu gia đình, quê hương, đất nước. -Nhân ái, khoan dung, quan hệ thân thiện với con người và môi trường tự nhiên. -Trung thực trong học tập và trong các mối quan hệ. -Có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. -Tự chủ, tự tin và có tinh thần vượt khó. -Chấp hành pháp luật, nội quy, quy định nơi công cộng. |
-Năng lực học tập chung, cơ bản. -Năng lực tư duy. -Năng lực thu thập (tìm kiếm, tổ chức), xử lý thông tin. -Năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề. -Năng lực giao tiếp. -Năng lực hợp tác. -Năng lực tự quản lý và phát triển bản thân. |
-Thực hành âm nhạc. -Hiểu biết âm nhạc. -Cảm thụ âm nhạc. -Sáng tạo âm nhạc -Ứng dụng âm nhạc.
|
Giải thích và minh họa về kế hoạch thực hiện phát triển các năng lực chuyên biệt về Âm nhạc:
Năng lực chuyên biệt về Âm nhạc |
Tiểu học |
THCS |
THPT |
|||||||||
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
10 |
11 |
12 |
|
Thực hành âm nhạc (ca hát, nhạc cụ, đọc nhạc) |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
Các chủ đề Âm nhạc tự chọn |
||
Hiểu biết âm nhạc (nhạc lí, âm nhạc thường thức) |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
|||
Cảm thụ âm nhạc (lắng nghe, cảm nhận, phân tích, đánh giá) |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
|||
Sáng tạo âm nhạc |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
||||||
Ứng dụng âm nhạc |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
√ |
3.4. GIÁO DỤC ÂM NHẠC ĐẬM BẢN SẮC VĂN HÓA ĐỊA PHƯƠNG
Chương trình và sách giáo khoa cần dành một thời lượng nhất định để nhà trường tổ chức giáo dục âm nhạc mang đậm bản sắc văn hóa các địa phương. Cụ thể, trong mỗi học kì, sách giáo khoa cần dành 1 tiết để nhà trường dạy nội dung tự chọn. Các nội dung được khuyến khích sử dụng trong tiết học này là: học các bài dân ca phổ biến tại địa phương; học bài hát viết về địa phương; học bài hát do nhạc sĩ ở địa phương sáng tác; học bài hát do thầy cô giáo trong nhà trường sáng tác; tìm hiểu về nhạc cụ dân tộc phổ biến ở địa phương; tìm hiểu về nghệ thuật âm nhạc và múa ở địa phương; tìm hiểu về mối liên hệ giữa âm nhạc và các loại nghệ thuật khác…
3.5. SỬ DỤNG DI SẢN TRONG GIÁO DỤC ÂM NHẠC
Việt Nam có nhiều di sản được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, trong đó có 6 di sản gắn với sinh hoạt văn hóa và âm nhạc, đó là: nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, dân ca quan họ Bắc Ninh- Bắc Giang, ca trù, hát xoan và đờn ca tài tử Nam Bộ. Việc tuyên truyền, sử dụng 6 di sản này là lợi thế và cũng là trách nhiệm của giáo dục Âm nhạc.
Các biện pháp cụ thể trong sử dụng di sản là khi biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn phương tiện dạy học của giáo viên, cần tăng cường sử dụng những hình ảnh, âm thanh, thông tin, hiện vật về 6 di sản gắn liền với sinh hoạt văn hóa và âm nhạc, góp phần làm phong phú nguồn tư liệu, nâng cao chất lượng giáo dục Âm nhạc và giáo dục văn hóa truyền thống trong nhà trường phổ thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống, Viện KHGDVN, Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng kế hoạch giáo dục phổ thông.
2. PGS.TS. Nguyễn Thị Hạnh, Viện KHGDVN, Xu thế phát triển giáo dục tiểu học của một số nước trên thế giới (Mã số: B2009-37-76).
3. Yvonne R. Khác biệt khi 3 con học ở Việt Nam, Đan Mạch và Canada (phần 1); Vừa học vừa chơi vẫn thoải mái (phần 2), Tin nhanh Việt Nam (www.vnexpress.net).
4. Chương trình GD môn Âm nhạc một số nước.
Và một số tài liệu khác...
Mã an toàn:
Sở hữu và quản lý Website: Lê Anh Tuấn (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam - Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Bài viết đã góp phần làm rõ những thắc mắc của nhiều GV âm nhạc khi chưa định hình được vị trí của môn học âm nhạc khi Bộ GD-ĐT đang thực hiện cải cách toàn diện nền GD. Xin cám ơn thầy Lê Anh Tuấn!